Công nghệ cũ là công nghệ phân hủy: theo tính toán thì thời gian ngâm nước thải trong bể phân hủy (Bể Phốt) từ 48 đến 72 giờ. Nó không sử dụng đệm vi sinh. Công nghệ của chúng tôi (theo bằng sáng chế 19328) là công nghệ sinh hủy nên: + Chất thải cần đi vào trực tiếp bể xử lý nước thải mà không dùng đến bể phốt. Vi sinh được phát triển rất mạnh và đồng đều trong nước nhờ đệm vi sinh để phân bổ. + Công nghệ sinh hủy không cần tách mỡ. Nó coi mỡ chỉ là một chất thải sinh hoạt thông thường
Quá trình hình thành bùn hữu cơ sẽ tạo ra đục nước. Ở đây, công nghệ của Vandan Group không sử dụng phương pháp lắng mà sử dụng vi sinh tự nhiên để sinh hủy lượng bùn này. Do đó, nước sau xử lý không còn bùn thải hữu cơ. Việc lập ngăn làm tăng dung tích bể, nếu chủ đầu tư không muốn tái sử dụng nước thải.
Mùi là các Axit hữu cơ và môt số cacbon hydro gây lên trong quá trình phân hủy. Do chúng tôi không để nước thải bị phân hủy nên không cần hệ thống xử lý mùi thường xuyên. Trong trường hợp sự cố, hệ thống xử lý sẽ trở thành bể phốt thông thường nên sẽ sinh mùi. Chúng tôi ghi nhận làm thêm hệ thống khử mùi đề phòng khi sự cố.
Trong công nghệ của chúng tôi không sử dụng bể điều hòa vì cần có các giai đoạn cao tải và ít tải để vi sinh thiếu “thức ăn” và tự sinh hủy lẫn nhau để triệt tiêu bùn sinh học.
Theo giải pháp công nghệ này, hệ thống xử lý nước thải không sử dụng bể điều hòa và vị trí kiểm tra có nhiều váng, rác, bùn phân là ngăn thu, tách rác của bể xử lý nước thải. Tại thời điểm kiểm tra, có nhiều váng, bùn, phân là do đang trong giai đoạn kích hoạt sinh học và váng, bùn phân sẽ tan hết trong quy trình vận hành tiếp theo. Cụ thể: + Váng nổi trên bề mặt chính là vi sinh hoạt động bề mặt và có lẫn phân tươi. Vi sinh này sẽ bị vi sinh trong vùng đệm tiêu hủy. Ban đầu lượng vi sinh trong vùng đệm chưa đủ lớn nên nó còn tồn tại. Sau khi lượng vi sinh đủ lớn thì lượng váng bùn nổi này sẽ bị tiêu hủy và luôn còn tồn dư một lượng nhất định và luôn ổn định với lượng tồn dư đó. + Rác tồn tại khi kiểm tra là do quá trình thi công còn sót lại, Chủ dự án đã yêu cầu Nhà thầu dọn sạch. Vì công nghệ xử lý nước thải đang áp dụng không sử dụng bể điều hòa nên việc đề cập đến thời gian lưu nước 3 giờ tại bể điều hòa là không cần thiết.
Bể cấp khí của công nghệ này nhằm cấp bổ sung CO2 bằng Oxy cho quá trình tổ hợp và quá trình sinh hủy. Lượng Oxy cần thiết chính là lượng BOD cần thiết cho quá trình hoạt động sinh học. Nó khác và nhỏ hơn công nghệ cũ vì quá trình tổ hợp nhỏ hơn rất nhiều (khoảng 20%) so với công nghệ cũ.
Chúng tôi không sử dụng quy trình: yếm khí, thiếu khí, hiếu khí, lắng lọc, khử trùng theo công nghệ cũ. Việc sinh hủy các chất hữu cơ để sinh khí tự nhiên trong không khí theo quy trình Sinh hủy – Tái tổ hợp – Sinh hủy. Nó không oxy hóa Amoniac, khử Nitorat và Phốt phát như công nghệ cũ.
Chúng tôi đã sử dụng đĩa phân phối khí và ống phân phối khí. Nhưng theo nghiên cứu và thực nghiệm cho thấy nó không hiệu quả bằng ống đục lỗ. Vấn đề này được Nhật Bản sử dụng rất thành công trong các Jokaso của họ. Chúng tôi kế thừa và áp dụng thành công vào giải pháp công nghệ này.
Vấn đề bùn thải trong nước được xử lý, chúng tôi không sử dụng bùn hoạt tÍnh mà dùng tích khối sinh học trong đệm vi sinh nên không cần tách lọc. Không cần bơm bùn dư cũng như ngăn chứa bùn dư vì không có bùn dư.
Theo bằng độc quyền sáng chế số 19328, hệ thống xử lý nước thải không cần có hệ thống xử lý sơ bộ (bể tách mỡ, bể tự hoại) và không cần có bể điều hòa (Trích dẫn trang 22 mục “Hiệu quả đạt được của sáng chế”).
Hệ thống phân phối khí được kế thừa từ hệ thống phân phối khí của thiết bị xử lý nước thải Nhật Bản – JOKASO (JOHKASOU). Chúng tôi khẳng định rằng sẽ không có sự cố bị tắc nghẽn trong bất kỳ điều kiện nào do: Bùn sinh học trong nước có kích thước nanomet (nm) nên khi bùn theo nước chui vào đường ống phân phối khí, khi cấp khí trở lại bùn sẽ bị khí đẩy ra dễ dàng vì ống phân phối khí có lỗ thoát khí có đường kính từ 2mm đến 3mm
Thông thường, van một chiều tại chân các ống đứng của các ống cấp khí có tác dụng ngăn ngừa bùn theo nước chui vào ống phân phối khí và có thể làm tắc nghẽn ống phân phối khí khi lỗ phân phối khí quá hẹp so với kích thước của bùn sinh học. Tuy nhiên, trong công nghệ này không cần dùng van một chiều ở chân các ống đứng cấp khí xuống ống phân phối khí vì bùn sinh học có kích thước nanomet trong khi lỗ cấp khí có đường kính từ 2 mm đến 3 mm nên bùn sẽ bị khí đẩy ra dễ dàng khi máy thổi khí hoạt động trở lại.
Công nghệ xử lý nước thải theo Bằng độc quyền sáng chế số 19328 này ít phát sinh mùi khó chịu trong quá trình vận hành xử lý. Tuy nhiên, tiếp thu ý kiến Chủ dự án sẽ cho lắp đặt bổ sung than hoạt tính để xử lý mùi.

Đã thêm vào giỏ hàng